SỔ | ||||||||
| ||||||||
Nghiệp vụ lễ tân ngoại giao - Bài 2 | ||||||||
Ngoại vụ Hà Tĩnh: 13:49-20/09/2006 | ||||||||
BÀI 1: NGÔI THỨ VÀ CÁC NGUYÊN TẮC TRONG XÁC ĐỊNH NGÔI THỨ TRONG LẾ TÂN NGOẠI GIAO. - Nguyên tắc tôn ti trật tự:, người trên trước người dưới: người được công nhận là quan trọng nhất được xếp vào vị trí được coi là hàng đầun, người kém quan trọng nhất được xếp ở vị trí cuối cùng. Thực hiện quy tắc này trong sắp xếp ngôi thứ, người ta thương căn cứ vào cấp bậc, tuổi tác, thâm niên và thực tế công tác: người có cấp bậc cao hơn sẽ ngồi ở vị trí cao hơn. Nếu hai người có cùng cấp bậc, người có thâm niên lâu hơn sẽ được xếp vị trí cao hơn. Nếu cùng thâm niên, thì người nhiều tuổi hơn sẽ được xếp vị trí cao hơn. Người tiền nhiệm sẽ xếp sau người đương nhiệm, người giữ cương vị danh dự đương nhiên ở sau người giữ chức vụ thực tế. - Thứ tự chính thức của ngôi thứ: Thường phải có văn bản quy định vị trí và ngôi thứ của một quốc gia, một đơn vị, tổ chức, căn cứ theo tầm quan trọng hay tiêu chí đề ra của quốc gia, đơn vị hay tổ chức đó. Ngôi thứ trong cùng một đoàn của một nước do nước đó quyết định trên cơ sở văn bản quy định ngôi thứ của họ. Vì vậy, nên có sự phối hợp với người chịu trách nhiệm lễ tân của các đoàn nước khách để lấy thông tin về thứ bậc của họ. Trong một cuộc hội nghị, thứ tự sắp xếp trong phái đoàn của một nước nên để cho họ tự sắp xếp nếu trước đó chưa có liên hệ về lễ tân. - Nguyên tắc bình đẳng giữa các nhà nước: Các nhà nước có chủ quyền đều bình đẳng như nhau. Các nguyên thủ quốc gia Trong một cuộc hội nghị hay đàm phán, nguyên tắc này được đặc biệt chú trọng. Để giải quyết nguyên tắc ngôi thứ này, việc sắp xếp ngôi thứ của các quốc gia (cờ, vị trí phái đoàn đại diện quốc gia) trong một cuộc hội nghị, một cuộc đàm phán... đảm bảo được tính tổ chức và bình đẳng của các phái đoàn thì được giải quyết theo thứ tự ABC từ A -Z hoặc theo nguyên tắc thứ thự ABC bốc thăm chữ cái đứng đầu hoặc căn cứ vào một tiêu chí khác dựa trên tính chất của từng hội nghị. Việc sắp xếp ngôi thứ của một vị khách trong một bữa tiệc, một buổi lễ phụ thuộc vào định chế mà họ đại diện, vào cấp bậc và quy chế đại diện, vào cương vị được bầu hay bổ nhiệm, vào tuổi tác, thâm nhiên và danh tiếng của người đó. Việc sắp xếp thứ tự các cá nhân đại diện quốc gia (nguyên thủ quốc gia, đại sứ) trong một buổi lễ, một bữa tiệc.... sẽ căn cứ vào tuổi và thâm niên công tác trên cương vị nguyên thủ hay đại sứ hoặc dựa trên một số tiêu chí khác như mức độ quan hệ... Cần nhớ, các tiêu chí đưa ra để sắp xếp ngôi thứ phải được đảm bảo thống nhất từ đầu đến cuối. - Nguyên tắc ngôi thứ không uỷ quyền: một người khi đại diện cho một người khác thì không thể được đối xử như người mình đại diện, nếu người đại diện không đồng cấp, trừ trường hợp đại diện cho nguyên thủ quốc gia, và rộng hơn cho một vị trí không thể có người đồng cấp (bí thư tỉnh uỷ, chủ tịch UBND tỉnh..ở trong một tỉnh). Trong trường hợp sau, người đại điện được đối xử trọng thị như người được đại diện. - Nguyên tắc nhường chỗ và nguyên tắc lịch sự với phụ nữ: thường thì chủ một buổi lễ hay một bữa tiệc ngồi ở vị trí số 1t, ngồi bên phải hay trước mặt chủ là vị khách cho cấp bậc cao nhất. Tuy nhiên, nếu tiếp khách chính là phụ nữ đồng cấp (nếu chủ là nam giới) hoặc là nam giới có cấp bậc cao hơn, chủ sẽ lịch sự nhường vị trí số 1 cho khách. - Nguyên tắc linh hoạt và có tiêu chí: Trong lễ tân, không phải lúc nào cũng có thể nêu hết các thứ bậc xã hội trong văn bản quy định. Trong nhiều trường hợp, tính linh hoạt là cần thiết. Một vj khách không dự kiến trước, không có trong văn bản quy định thứ bậc nhưng sự có mặt của người này là cần thiết cho tính chất của sự kiện sẽ được ưu tiên dành những vị trí trang trọng, thậm chí trang trọng nhất (người thân của người được trao tặng huân chương tại buổi lễ trao tặng huân chương, những nguời có nhiều huân huy chương hay được trao giải đặc biệt, hoặc người có uy tín trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật...). Trong các buổi lễ thường, các chức sắc tôn giáo được xếp sau các quan chức dân sự. nhưng trong một số trường hợp khi tính chất sự kiện mang tính tôn giáo.. thì vị trí của các chức sắc tôn giáo được đề cao. Chính vị vậy, ngôi thứ có thể có những thay đổi, bổ sung so với văn bản quy định ngôi thứ, nhưng nhất thiết phải có tiêu chí rõ ràng và thống nhất từ đầu đến cuối cho những thay đổi đó. - Nguyên tắc tôn trọng khách nước ngoài: Khách nước ngoài đến thăm được xếp trước khách chủ nhà, nếu hai người cùng cấp. Chỗ của khách nước ngoài trong một đoàn khách do chính quyền nước đó xác định chứ không phải nước chủ nhà. - Nguyên tắc quan tâm đến các cặp vợ chồng: Vợ được ưu tiên vị trí hơn chồng trong sắp xếp ngôi thứ trong các sự kiện yêu cầu sự có mặt của cả hai. Trong các buổi lễ, các cặp vợ chồng được xếp cùng nhau căn cứ vào thứ bậc người giữ cương vị được mời. Trong các bữa tiệc, các cặp vợ chồng thường được tách ra. ngồi ở cùng một dãy hoặc ngồi ở các bàn khác nhau, trừ trường hợp họ là chủ nhà. BÀI 2: CÁC NGUYÊN TẮC SẮP XẾP TRONG NGÔI THỨ. -Bên phải trước, bên trái sau, gần trước, xa sau: Chủ nhân được xác định là vị trí quan trọng nhất. Vị khách quan trọng số 1 được xếp ở bên phải chủ nhân, vị khách quan trọng số 2 được xếp ở bên trái chủ nhân, và cứ thế xen kẽ tiếp theo. Quy tắc này có thể linh hoạt trên thực tế vì lý do thể chất (thuận tay trái, nặng tai phải...) của khách hay vì một lý do tế nhị nào đó, nhưng phải báo cho khách biết. Trong trương - Từ trong ra ngoài: Nguyên tắc ngày được đặc biệt lưu ý trong xếp các đoàn tham dự hội nghị, trong việc xếp cờ. Việc áp dụng các nguyên tắc khác trong trường hợp này phải được xét từ phía trên khán đài xuống. - Quy tắc xếp theo chữ cái ABC: Nguyên tắc này được áp dụng trong các hội nghị, các cuộc đàm phán, đảm bảo được tính tổ chức và bình đẳng của các phái đoàn. Thứ tự sắp xếp các nước theo thứ tự chữ cái ABC tên của nước đó dịch ra ngôn ngữ của nước chủ nhà hoặc một ngôn ngữ quốc tế hoặc một ngôn ngữ khác theo thoả thuận giữa các bên, từ A -Z. Tuy nghiên, để bớt cứng nhắc, người ta áp dụng quy tắc này nhưng bốc thăm chữ cái đầu tiên đại diện tên quốc gia được xếp ở vị trí số 1, các vị trí tiếp theo sẽ theo thứ tự ABC kể từ vị trí số 1 trở đi và lộn lên phía trước (Ví dụ, trong tiếng Anh, vị trí đầu tiên là H, thì vị trí thứ 2 sẽ là I, vị trí cuối cùng là G). Tiêu chí sắp xếp cũng có thể thay đổi, có thể là - Căn cứ cấp bậc, tuổi tác, thâm niên, thực tế công tác, danh dự của khách. Việc sắp xếp ngôi thứ của một vị khách trong một bữa tiệc, một buổi lễ phụ thuộc vào định chế mà họ đại diện, vào cấp bậc và quy chế đại diện, vào cương vị được bầu hay bổ nhiệm, vào tuổi tác, thâm nhiên và danh tiếng của người đó. Người có cấp bậc cao hơn được xếp ở vị trí cao hơn; hai người có cùng cấp bậc thì người có thâm niên công tác cao hơn được xếp cao hơn; hai người có cùng cấp bậc, cùng thâm niên thì ai nhiều tuổi hơn được xếp trước hơn; nếu cả ba tiêu chí giống nhau có thể căn cứ vào một số tiêu chí khác như danh tiếng, mức độ quan hệ... Cần nhớ, các tiêu chí đưa ra để sắp xếp ngôi thứ phải được đảm bảo thống nhất từ đầu đến cuối. - Quy tắc lịch sự với phụ nữ: phụ nữ cùng hàm cấp được ưu tiên xếp trước, phụ nữ không ngồi bịt đầu bàn, không ngỗi giữa hai chân bàn. Phu nhân của khách được xếp trước khách, (nhưng phu quân của khách laị xếp sau người có thứ bậc kế tiếp khách) - Quy tắc tôn trọng khách nước ngoài: Khách nước ngoài được ưu tiên hơn so với khách địa phương (trong nước) nếu cùng cấp. - Quy tắc xen kẽ: xen kẽ khách trong nước và nước ngoài, nam với nữ; các cặp vợ chồng không nên ngồi gần nhau trong một bữa tiệc trừ trường hợp cần phải đồng chủ trì một bàn tiệc. Tuy không phải là quy tắc, nhưng khi sắp xếp ngôi thứ, cần chú ý một số vấn đề sau, trong chừng mực nhất định, việc thay đổi không làm ảnh hưởng nhiều đến việc sắp xếp. + Tính tương đồng của các khách cùng dự (nghề nghiệp, ngôn ngữ...) + Nên chọn bàn tròn hoặc bàn vuông để bố trí bữa tiệc. + Cần lập sơ đồ sẵp xếp trước khi diễn ra hội nghị + Xếp chủ chính và khách chính đối diện khi số người chẵn. Xếp chủ chính và khách chính liền kề khi số người cùng dự một bàn ăn là lẻ, hoặc chẵn. + Khi xếp khách ở các lễ đài buổi lễ vị trí của người quan trọng nhất xác định việc sắp xếp ngôi thứ tiếp theo. Thường thì người này ở giữa, nhưng cũng có thể xếp đầu tiên bên phải. Lúc này, cũng tuân theo các nguyên tắc trên nhưng linh hoạt hơn, bên phải xem như ẩn./. | ||||||||
| ||||||||
| ||||||||
Khách du lịch làm quen với văn hóa Mỹ | ||||||||
Ngoại vụ Hà Tĩnh: 08:17-04/05/2007 | ||||||||
Không có nước nào trên trái đất có dân số phong phú và nền văn hóa đa sắc màu như nước Mỹ. Nước Mỹ rộng lớn, tập hợp của nhiều vùng khác nhau, dân nhập cư trên toàn thế giới đổ đến trong nhiều thế kỷ qua mang theo màu sắc văn hóa và truyền thống riêng của họ đã làm cho lối sống Mỹ có nhiều nét khác biệt. Chính sự hòa trộn nhiều truyền thống đã làm nên sức mạnh nhưng cũng tạo ra rất nhiều thách thức và vấn đề cho nước Mỹ. Tự do là nền tảng của văn hóa Mỹ. Hiến pháp Mỹ bảo đảm cho người dân có một số quyền và tự do. Hiến pháp đó hạn chế ảnh hưởng của chính phủ đến cuộc sống cá nhân của công dân. Khi đã tôn trọng quyền của những công dân khác thì mọi người Mỹ đều được tự do làm việc, vui chơi, tự do tín ngưỡng, đi lại và sống theo ý thích. Tôn trọng cá nhân: Hầu hết người Mỹ tin rằng con người lý tưởng phải là người độc lập và tự nuôi nổi mình và phần lớn người Mỹ tin rằng họ là người như vậy. Người Mỹ không nghĩ rằng họ là đại diện của gia đình, của cộng đồng hay giai cấp của họ. Chủ nghĩa cá nhân đó cũng được áp dụng trong lớp học, thầy kỳ vọng trò trở thành người có ý chí độc lập và có cá tính, tự làm bài và tạo ra những ý tưởng độc đáo. Bình đẳng: Tuyên ngôn độc lập của Mỹ ghi nhận “mọi người sinh ra đều bình đẳng”. Hầu như mọi người tin vào điều này, có thể nhận thấy niềm tin về sự bình đẳng này trong thói quen “xếp hàng”. Khi đến ngân hàng, bưu điện hay cơ quan đăng ký di trú, khách hàng phải lấy số và chờ đợi. Bất kể là công việc quan trọng hay thông thường, mọi người đều được đối xử như nhau, ai đến trước thì được phục vụ trước. Ngay cả ở các trường học cũng thể hiện tinh thần bình đẳng, giáo sư coi mọi sinh viên như nhau và nhiều giáo sư coi sinh viên ngang hàng với mình (nhất là ở cấp đại học) và yêu cầu sinh viên gọi mình bằng tên. Nhưng bình đẳng nam nữ trong thu nhập chưa hoàn toàn được thực hiện ở Mỹ. Theo dữ liệu của Cục thống kê lao động Mỹ thì phụ nữ được trả lương thấp hơn nam giới cùng nghề. Ví dụ, phụ nữ là bác sĩ hay phẫu thuật viên chỉ có thể được trả lương bằng khoảng 60% so với đồng nghiệp nam. Ngay cả những nghề truyền thống vẫn dành cho nữ như nghề thư ký và nhân viên hành chính thì phái nữ vẫn chỉ được trả lương khoảng 85% so với nam. Gia đình: thường không đông như nhiều nền văn hóa khác trên thế giới. Mỗi gia đình Mỹ thường chỉ có hai con hoặc ít hơn. Hầu hết trẻ em Mỹ sống trong một gia đình có cả cha lẫn mẹ. 60% các bà mẹ Mỹ có việc làm ngoài xã hội. Các bậc cha mẹ có con đã trưởng thành thường sống riêng, quản lý nhà của họ nhưng khi đã có tuổi hay đã già thì nhiều người cũng sống với con cháu. Giờ làm việc: Người Mỹ làm việc mỗi tuần 40 giờ, mỗi ngày 8 giờ, từ thứ hai đến thứ sáu. Giờ làm việc thực sự dao động từ 9 giờ sáng đến trước 6 giờ chiều. 42% lực lượng lao động Mỹ là phụ nữ. Giờ ăn trưa thường chỉ trong vòng 1 giờ. Vì vậy giờ ăn tối trở thành bữa chính của nhiều người Mỹ. Chào hỏi bằng động tác cơ thể: Vẫy tay hay gật đầu được sử dụng khi bạn ở trong hoàn cảnh không thể trả lời bằng miệng. Bắt tay nhau cũng là hình thức chào hỏi thường thấy ở người lớn, nhưng thường khi gặp ai đó lần đầu hay đã lâu mới gặp, người Mỹ không bắt tay nhau hằng ngày. Ôm hôn hay hôn lên má là hành vi thường có giữa các thành viên trong gia đình hay giữa những người bạn thân khác giới lâu ngày mới gặp nhau. Giữ khoảng cách cơ thể trong giao tiếp: Khi đứng nói chuyện, người Mỹ cảm thấy thoải mái khi cách nhau 75cm. Nhiều phong tục trên thế giới cho phép đứng gần hơn, với người Mỹ thì đứng quá gần có thể làm cho họ thấy khó chịu. Biết điều này sẽ dễ nói chuyện và dễ kết bạn hơn. Đúng giờ: Trong công việc, đúng giờ là một phẩm chất được coi trọng mặc dầu trong các tình huống xã hội khác người Mỹ tỏ ra thông cảm. Hẹn gặp vì chuyện làm ăn nên đến sớm vài phút. Mời có mặt vì những lý do xã hội (khai mạc, động thổ...), nên đến chậm hơn giờ chính thức 10-15 phút, đến sớm lại không hay. Nếu chậm hơn vài phút thì tốt nhất là xin lỗi, tìm một lý do để bào chữa thường là không cần thiết. Nếu biết sẽ chậm hơn 10-15 phút thì cách ứng xử lễ độ là gọi điện báo trước cho chủ nhà biết về sự chậm trễ của mình. Thái độ giao tiếp và cách xưng hô: Tên thông thường hay được dùng, như thế không phải là thiếu lễ độ với địa vị xã hội hay tuổi tác. Có nhiều thói quen không dùng lời nhưng vẫn tỏ sự kính trọng. Người trẻ thường ít nói hơn khi đứng trước người có tuổi và thái độ tỏ ra ít quả quyết hơn. Người trẻ và người có vị trí thế xã hội thấp hơn ít khi dùng tiếng lóng hay từ dung tục trước cấp trên. Với người cùng tuổi, cùng vị trí xã hội hoặc người ít tuổi hơn có thể gọi bằng tên. Phụ nữ hay nam giới nhiều tuổi hơn mình thì thường gọi bằng bà, cô, ông (Mrs, Ms, Mr) cho tới khi được những người này yêu cầu gọi bằng tên hoặc khi bạn đã quen biết hơn với họ. Một số phụ nữ Mỹ ưa cách gọi Ms. (đọc là Miz) vì dùng được cho cả hai giới chưa kết hôn. Nếu không rõ một phụ nữ đã kết hôn hay chưa thì nên dùng Ms. Tình huống xã giao: Khi được mời đến nhà của sếp hay người có ảnh hưởng đến công việc của mình thì đúng giờ thường gây được ấn tượng tốt. Quà tặng thường không bắt buộc nhưng bao giờ cũng được chủ nhà rất thích. Một quà lưu niệm mang từ đất nước của khách đến là quà tặng tuyệt vời. Hoa hay sôcôla cũng là quà tặng được nhiều người dùng. Rượu vang là quà tặng quý nếu biết chắc người nhận quà biết uống rượu. Nếu không biết chắc thì tránh tặng quà là đồ uống có rượu. Chủ nhà có thể nói về các món ăn mời khách. Nên cho chủ nhà biết mình không có kiêng cữ gì trong ăn uống. Chủ nhà cũng không muốn khách ăn món khách không thích. Chủ nhà cũng có thể làm theo yêu cầu về ẩm thực của khách hay để khách tự chọn lấy món ăn mình ưa thích. Nếu tự chọn thức ăn thì không nên lấy quá sức ăn của mình. Nên lấy thêm suất ăn nữa còn hơn bỏ lại phần lớn trên đĩa của mình. Nhiều người Mỹ chỉ mời suất ăn thứ 2 một lần. Chủ nhà thường không ép khách ăn suất thứ 2 nhưng khi khách đòi ăn thêm thì chủ nhà cũng thấy vui lòng và coi đó là lời khen về tài nấu nướng của mình. Người Mỹ thường hay nói bóng gió để kết thúc cuộc họp mặt, nào là đã muộn rồi hay ngày mai phải dậy sớm. Đó là dấu hiệu để khách nên cáo từ ra về. Trọng Hiền st | ||||||||
|
Thứ Tư, 6 tháng 10, 2010
sổ tay lễ tân
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét